Mặc dù hồ Ka Pét đã được cân nhắc cẩn thận trước khi được quyết định phê duyệt xây dựng công trình, dự án vẫn cần được nhìn nhận thêm một lần nữa ở các khía cạnh kinh tế, môi trường và xã hội, đặc biệt là cần được nhìn nhận cả ở hiện tại lẫn tương lai để có được những đánh giá tốt nhất về vai trò dự án cũng như xem xét lại những giải pháp để có thể đảm bảo những quyết định thực hiện là hiệu quả nhất có thể.
Thực trạng thiếu nước phục vụ cho hoạt động tưới tiêu, sinh hoạt ở Hàm Thuận Nam nói riêng và tỉnh Bình Thuận nói chung đã kéo dài từ rất lâu, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng sống của người dân nơi đây. Việc xây dựng hệ thống các hồ chứa nước đã góp phần xoa dịu được những tác động tiêu cực của vấn đề này. Tuy nhiên, dự án hồ chứa nước Ka Pét là hạng mục khó đưa ra quyết định khởi công nhất.
Ngay trong giai đoạn chuẩn bị nguồn lực để khởi công, dự án hồ chứa nước Ka Pét tiếp tục gây tranh cãi gay gắt từ phía dư luận, điều đã không xảy ra trong toàn bộ hệ thống công trình thủy lợi của tỉnh Bình Thuận.
Lý do là vì hạng mục hồ chứa nước Ka Pét khá phức tạp, có ảnh hưởng đến nhiều vấn đề kinh tế, xã hội, môi trường và đặc biệt là sự hiện diện của yếu tố “rừng” vốn rất được quan tâm không chỉ trên cả nước mà còn ở phạm vi thế giới. Một quyết định đánh đổi như xây dựng hồ Ka Pét chắc chắn sẽ đem lại những điều được mất cho các cá nhân và toàn xã hội. Tuy nhiên, có những quyết định đánh đổi có thể được bù đắp bằng những nguồn lực khác, cũng có những sự đánh đổi gây tổn thương không gì có thể khắc phục được. Nếu đặt hồ Ka Péttrên bàn cân kinh tế và môi trường trong cả hiện tại lẫn tương lai, vai trò của công trình này sẽ được nhìn nhận thấu đáo hơn.
Hồ Ka Pét có thực sự là giải pháp duy nhất giải quyết vấn đề thiếu nước, đặc biệt là cho hoạt động sản xuất Thanh Long?
Dự án hồ Ka Pét được quy hoạch cho giai đoạn 1995-2010, dự kiến sẽ xây dựng trong hai năm 1998-1999, kinh phí khoảng 106,4 tỷ đồng từ nguồn ngân sách Trung Ương. Nhưng thực tế phải mất 20 năm để dự án hồ Ka Pét đủ điều kiện xây dựng. Trong kế hoạch quy hoạch hệ thống thủy lợi chung, cùng với các công trình Đập dâng Ba Bàu (được xây dựng vào năm 1996, hoàn thành năm 1999), Hồ Sông Móng (được xây dựng năm 2007, hoàn thành năm 2012), hồ Ka Pét thuộc hệ thống công trình quy hoạch liên hoàn, có vai trò bổ trợ nguồn nước cùng với các hồ và công trình thủy lợi khác để phát huy diện tích đất canh tác và diện tích đất gieo trồng cho Hàm Thuận Nam. Bên cạnh đó, hồ Ka Pét còn có nhiệm vụ trữ nước từ hồ La Ngà 3 thông qua đường ống dẫn nước Q = 8,3 m3/s để thúc đẩy năng lực cấp nước cho hạ lưu sông Cà Ty.
Nguồn: Nhóm tác giả lấy huyện Hàm Thuận Nam làm trung tâm để thiết lập một khu vực khảo sát rộng 24.276,92 km2
Hiện nay, lưu vực sông Cà Ty đã được xây dựng hồ Sông Móng với toàn bộ dung tích là 37 triệu m3, nguồn nước đến lưu vực có thể được khai thác tại tuyến công trình ứng với tần suất P=85% là 154,4 triệu m3. Thông số này cho thấy nguồn nước cung cấp vẫn có thể đảm bảo bổ sung được bằng cách thêm một hồ chứa nước mới, hồ Ka Pét được xây dựng nhằm hướng đến mục tiêu này. Tổng số các công trình hồ hiện trạng và hồ chứa nước mới quy hoạch đến năm 2021 là 5 công trình. Tổng dung tích hiệu dụng của các hồ chứa và đập dâng Ba Bàu và các ao bàu thuộc lưu vực Cà Ty khoảng 95,5 triệu m3.
Tổng hợp các thông số kỹ thuật công trình hồ chứa lưu vực sông Cà Ty
Nguồn: Báo cáo của tỉnh Bình Thuận
Nghị quyết 93/2019/QH14 về chủ trương đầu tư dự án của tỉnh Bình Thuận có ghi rõ dự kiến hồ Ka Pét điều tiết dung tích toàn bộ Wtb = 51,21 triệu m3, dung tích hữu ích Whi = 47,41 triệu m3, dung tích chết Wc = 3,8 triệu m3, như vậy hồ Ka Pét được kỳ vọng có năng lực trữ nước khá lớn so với các hồ trong hệ thống thủy lợi Bình Thuận và có thể giải quyết được hữu hiệu vấn đề thiếu nước của Hàm Thuận Nam.
Tuy nhiên, vai trò của hồ chứa nước Ka Pét còn có thể được đánh giá thông qua xem xét các giải pháp thay thế. Tỉnh Bình Thuận có diện tích đất canh tác nông nghiệp chủ yếu là cát và cồn cát, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nhiều nắng, nhiều gió và khô hạn nhất cả nước. Chính vì sự khắc nghiệt của tự nhiên, cây thanh long thuộc họ xương rồng được lựa chọn để trồng trọt ở đây vì đặc tính giữ nước. Ngoài nhu cầu sinh hoạt, mục đích cung cấp nước cho việc trồng trọt Thanh Long lớn và bức thiết hơn. Trên thế giới, một số quốc gia phát triển cũng đã có nhiều giải pháp liên quan đến việc tiết kiệm nước, điển hình là người Israel với kỹ thuật tưới nhỏ giọt phục vụ cho hoạt động canh tác chà là ở sa mạc. Kỹ thuật tưới nước nhỏ giọt cũng đã được áp dụng tại Hàm Thuận Nam trong những năm gần đây nhưng chưa thực sự phổ biến và đúng cách. Trước khi lựa chọn giải pháp phá rừng xây dựng hồ Ka Pét, tỉnh Bình Thuận cũng cần phải xem xét kỹ thêm các giải pháp thay thế, đặc biệt là giải pháp ứng dụng công nghệ để lập kế hoạch tưới tiêu, quản lý việc sử dụng nước hiệu quả và tiết kiệm trong canh tác hoặc phương pháp thủy canh và khí canh giúp tiết kiệm nước. Câu chuyện nước của ngày hôm nay và hai mươi năm trước đã khác biệt rất nhiều, nhất là trong bối cảnh khủng hoảng nước sạch toàn cầu, giải pháp tiết kiệm nước đang được kêu gọi ưu tiên hơn.
Đặt vai trò của hồ Ka Pét trong câu chuyện kinh tế môi trường thì lợi ích nên được nhìn nhận ra sao?
Theo báo cáo của Sở NN&PTNT tỉnh Bình Thuận, diện tích canh tác thanh long của tỉnh hiện khoảng 27.649 ha, chiếm 80% diện tích canh tác tỉnh, đã giảm 15,8% so với năm trước. 30 ngàn hộ nông dân tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất Thanh Long Bình Thuận, tạo khoảng 70 đến 80 ngàn việc làm cho lao động địa phương. Sản lượng thanh long sản xuất và cung cấp trong quý I/2023 khoảng 173 ngàn tấn, có sụt giảm do giá cả thị trường bấp bênh khiến nông dân không có động cơ chong đèn. 15% sản lượng được tiêu thụ trên thị trường nội địa và 85% được xuất khẩu, chủ yếu là thị trường Trung Quốc. Quý I sản lượng thanh long xuất khẩu là 1.150 tấn, kim ngạch xuất khẩu 1,8 triệu USD đạt 20,93% kế hoạch năm 2023, giảm 13,17% so với cùng kỳ năm trước. Hệ thống trồng trọt, sản xuất thanh long Bình Thuận hiện nay thực hiện theo phương pháp canh tác tự nhiên hoặc một phần hướng đến đáp ứng các tiêu chuẩn VietGap, Global Gap. Như vậy, có thể thấy ngành Thanh Long đóng vai trò quan trọng và đem lại nguồn thu nhập khá lớn cho Bình Thuận. 5 năm trước đây, Thanh Long là ngành đem lại thu nhập cao hơn cho nông dân và thu hút khá nhiều hộ tham gia sản xuất. Tuy nhiên, sau giai đoạn khó khăn bắt đầu từ trước đại dịch Covid-19, ngành Thanh Long đang có khuynh hướng thoái trào. Sự đứt gẫy chuỗi cung ứng, chiến lược ủng hộ hoạt động sản xuất nội địa của các nước trên thế giới khiến hoạt động xuất khẩu bị chững lại. Thanh Long đứng trước thách thức phải mở rộng thêm các thị trường tiêu thụ mới.
Ngày 19/4/2023 vừa qua, Hội đồng Liên minh Châu Âu đã thông qua quy định về chuỗi sản phẩm không phá rừng nhập khẩu vào Châu Âu. Quy định nêu rõ các sản phẩm trên kệ hàng bán lẻ tại Châu Âu phải không tác động đến phá rừng kể từ năm 2024. Quy định là việc cụ thể hóa mong muốn của người tiêu dùng Châu Âu trong đóng góp vào sử dụng sản phẩm không phá rừng. Nhưng sâu xa hơn, đó là việc giữ lại rừng – một nguồn hấp thụ carbon quan trọng trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu do hiệu ứng nhà kính. Người tiêu dùng thanh long Bình Thuận ở Châu Âu nói riêng và trên thế giới nói chung sẽ nghĩ gì nếu biết những trái thanh long đăng ăn được tưới từ nguồn nước hồ Ka Pét, nơi đã mất đi 600ha rừng để làm hồ.
Dưới góc độ kinh tế, rừng giờ đây không chỉ có chức năng sản xuất gỗ, bảo tồn đa dạng sinh học, dự trữ nước ngầm… mà còn là nơi có thể bán được tín chỉ carbon. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, tổng giá trị giao dịch chứng chỉ carbon toàn cầu năm 2021 đạt 85 tỷ USD, tăng 184% so với năm 2020. Báo cáo này cũng dự báo, giá chứng chỉ carbon toàn cầu sẽ được giao dịch từ 100 đến 170 USD/ tấn CO2e vào năm 2030. Nếu 600 ha rừng kể trên được tính theo mức trung bình thấp nhất trong các loại rừng tại Việt Nam là 1-19 tấn CO2e/ha với mức giá 100 USD/tấn thì giá trị tín chỉ carbon hàng năm tạo ra sẽ là 600 nghìn USD/năm.
Trong buổi họp báo liên quan đến hồ Ka Pét UBND tỉnh Bình tổ chức chiều ngày 7/9, ông Lê Thanh Sơn, Phó giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Bình Thuận cho biết, so với 360.000 ha rừng tự nhiên toàn tỉnh Bình Thuận, 600 ha rừng dành để làm dự án chỉ chiếm 0,15%. Riêng rừng đặc dụng để làm dự án so với tổng diện tích hơn 24.000 ha rừng đặc dụng cũng chiếm tỉ lệ rất nhỏ. Vì vậy, ông Sơn khẳng định, mức độ ảnh hưởng không quá lớn với tổng thể chung. Báo cáo phân tích kinh tế dự án trình Quốc hội cũng tính toán giá trị lợi ích kinh tế là dương.
Trong các nguồn tạo ra khí nhà kính toàn cầu thì nông nghiệp đứng thứ hai, chiếm 26% trong tổng số 52,3 tỷ tấn (tương đương tấn CO2). Hơn một nửa nguồn tạo khí nhà kinh trong sản xuất nông nghiệp đến từ việc sử dụng đất (24%) và sử dụng phân bón, nước tưới (27%). Khi sản xuất nông nghiệp tính toán được toàn bộ các nguồn phát sinh khí nhà kính như trên, cân đối với lượng tín chỉ carbon do cây trồng tạo ra, nếu dương thì nông dân cũng có thể có thêm thu nhập từ tín chỉ carbon. Một công ty trồng bông đã bán được 1 triệu USD tín chỉ carbon cho nông dân Mỹ trong niên vụ 2020-2021. Ở Việt Nam hiện chưa có dự án nào tạo được thu nhập cho nông dân từ bán tín chỉ carbon, nhưng trong tương lai không xa, những công ty công nghệ nông nghiệp hàng đầu đang nghiên cứu và phát triển các dự án sản xuất sạch (CDM) để hướng tới thị trường giao dịch tín chỉ carbon toàn cầu và gia tăng thu nhập cho nông dân.
Sản xuất nông nghiệp là quan trọng hay bảo vệ rừng là quan trọng. Việc ước lượng các tác động kinh tế như trên đã có thể tính toán thông qua phương pháp định lượng, các giá trị quan trọng đã có thể được cân nhắc một cách khá rõ ràng. Tuy nhiên, nếu nhìn lợi ích thông qua phương pháp định tính để xem xét người nông dân Hàm Thuận Nam khi có nguồn nước để trồng thanh long sẽ hạnh phúc hơn hay người dân Việt Nam và người tiêu dùng thanh long toàn cầu sẽ đau khổ hơn khi mất rừng thì khó mà ước lượng. Trong Homo Deus, Yuval cũng dẫn một ví dụ tương tự về xây đập Tam Hiệp. Kinh tế và sản xuất điện quan trọng hay sự tuyệt chủng của cá heo sông Trường Giang quan trọng. Ngay cả khi quy được phúc lợi về kinh tế sang thành hạnh phúc của con người thì chúng ta cũng không thể so sánh được hạnh phúc của loài người sẽ tăng do có điện rẻ hay giảm do thương tổn đa dạng sinh học. Chúng tôi sẽ dùng một khung phân tích các bên liên quan được sử dụng phân tích tại trường Đại Học Lý Quang Diệu và trường Chinh sách công và Quản lý Fulbright (FSPPM) để cùng phân tích thêm về dự án hồ Ka Pét dưới góc nhìn lợi ích các bên liên quan trong kỳ tới.
(Theo: Kinh Tế Sài Gòn)
Tác giả:
Bùi Huy Bình (Tổng Giám đốc Công ty cổ phần giải pháp và dịch vụ truy xuất nguồn gốc TraceVerified)
Trần Hương Giang (Giám đốc Chuyên môn Viện Nghiên cứu và Đào tạo Tâm Việt – Tâm Việt Group)
>> Xem thêm: Kỳ 2: Hồ Ka Pét dưới góc nhìn lợi ích các bên liên quan